Nhân tưởng niệm nạn nhân vụ thảm sát phố Khâm Thiên nhớ những vần thơ của Lưu Quang Vũ
Sương Nguyệt MinhFB cá nhân
11:45' SA - Thứ tư, 27/12/2017
Bài thơ hay ít người biết của Lưu Quang Vũ, từ Hà Nội - Mùa Đông 1972 đỏ lửa. 45 năm trước, thời gian vừa đủ cho một đứa bé sinh ra ở Bệnh viện Bạch Mai máu lửa lớn lên thành trung niên, có thể đã là ông tướng, là giáo sư, là doanh nhân thành đạt, Khâm Thiên ngập chìm trong chết chóc, nát tan.
Tượng đài Khâm Thiên được dựng lên sau trận bom rải thảm đêm 26/12
Trong khi âm hưởng "Đường ra trận mùa này đẹp lắm" vẫn vang vọng từ đồng ruộng, nhà máy đến chiến trường, thì lại có Thơ Ghéc ni ca ảm đạm, u buồn, phẫn uất.
Quả thật! Cái còn lại và đi mãi với thời gian của Lưu Quang Vũ sẽ là... Thơ.
Năm 24 tuổi mà Lưu Quang Vũ đã viết những vần thơ:
"Năm 72! Có thể thế được chăng hãy mở mắt ra trông vụ thảm sát xưa nay chưa từng có năm trái đất phóng bao tàu vũ trụ không nơi nào không nói đến tình thương Ghéc-ni-ca cũng chẳng thảm thê bằng vô nghĩa hết, thánh kinh và máy tính những pho sách, những dàn giao hưởng ích gì đâu, khi bể máu dâng đầy..."
Máy bay Không lực Hoa Kỳ đã tấn công Hà Nội, rải thảm các cơ sở dân sự trong đêm Giáng sinh ngày 25/12/1972
.
Thật kinh ngạc! Một tư duy thơ khác hẳn với cách nghĩ chung cùng thời.
Mời các bạn đọc bài thơ này của Lưu Quang Vũ, được lấy từ FB của một ông bạn:
KHÂM THIÊN (Lưu Quang Vũ)
Những người chết trong đêm thân gãy nát óc chảy ròng trên gạch những người chết cháy đen miệng há mắt mở trừng những xác vùi đẫm máu dưới cầu thang tay chân vặn vẹo thịt xương lòng ruột mắc trên dây điện phố Khâm Thiên ầm ầm đổ sụp tiếng người la khủng khiêp xé đêm dài
Từ đống đổ nát Khâm Thiên, người Hà Nội không khuất phục!
* Mặt trời lên trên bãi thây người mặt dập vỡ ngực trần thủng hoác những đống tóc gân đầu mình lẫn lộn những xác tím bầm lạnh buốt sương đêm bốn phía tiếng gào tiếng khóc tiếng rên tiếng xẻng cuốc bới người trong gạch vụn phố đông đúc thành bãi bằng đổ nát không nhận ra những vỉa hè quen xác người nằm ngổn ngang báo đậy mặt, ruồi đậu bàn chân xám bé ngẩng đầu ngơ ngác bên xác anh xác chị xác mẹ cha tôi đi như mù lòa đỡ em gái đập đầu ngã ngất bà cụ phát điên vật mình ôm mặt người mất tích đang tìm, người chết chẳng kịp chôn xe nối xe sừng sững chở quan tài đóng vội bằng mặt bàn, cánh cửa phấn run rẩy ghi tên người xấu số lên nắp quan xộc xệch chẳng bào sơn quan tài trẻ thơ như những chiếc hòm con những bát đĩa tủ giường tan vỡ quần áo nát, gạo dầu ngùn ngụt lửa sách vở dép giày vùi dưới hố sâu tấm màn trắng xóa xé chia nhau chít vội lên đầu cả khu phố già đi hàng chục tuổi những bó hương bên đường nghi ngút khói những bó hương châm nát cả bầu trời người trồng rau, chữa khóa, vá may người nhặt củi, quét đường lam lũ từ nay chung buổi giỗ Bạch Mai Yên Viên Vọng Láng An Dương phố đầy khăn tang đêm không đèn tối mịt chúng tôi ngồi bên nhau chờ cái chết người các ô lên nằm ngủ vườn hoa gió cuối mùa xót xa thổi xõa tóc đoàn người chạy giặc những dòng người kéo đi xé ruột đội chiếu, ôm chăn, đeo làn, vác bọc chút gia tài nghèo cực địu trên lưng bao gia đinh dắt díu chị bồng em những quần áo khói bom lấm rách những cụ già vịn nhau dò dẫm máu ròng ròng trên những chiếc cáng thương * năm 72! Có thể thế được chăng hãy mở mắt ra trông vụ thảm sát xưa nay chưa từng có năm trái đất phóng bao tàu vũ trụ không nơi nào không nói đến tình thương Ghéc-ni-ca cũng chẳng thảm thê bằng vô nghĩa hết, thánh kinh và máy tính những pho sách, những dàn giao hưởng ích gì đâu, khi bể máu dâng đầy ôi xấu xa, đê nhục lắm con người lời không đủ để nói điều phẫn nộ tôi muốn có phiên tòa cho tất cả tôi vạch từng tên tôi gọi từng người hãy đứng ra đây các bà mẹ Mỹ những dòng sữa đã nuôi bầy đồ tể lời ru nào đã dạy chúng lớn khôn những Kít-xinh-giơ và những Ních-sơn ta nguyền rủa chúng mày cho đến chết những kẻ nào đã gây ra tội ác những kẻ nào để tội ác gây ra những chính khách những nhà thơ những bộ óc chế súng bom hủy diệt các tư tưởng cầm quyền các nước lãnh tụ tối cao của mọi đảng trên đời các ông kêu: vì hạnh phúc con người nay con người chết đi cái phúc ấy ai dùng được nữa! chục chiếc B-52 không đổi được một trẻ nghèo Ngõ Chợ không thể nhân danh bất-cứ-cái-gì bắt máu vạn dân lành phải đổ không thể chắp bình minh bằng xương thịt những mặt người vỡ nát ai tự xưng môi kề răng lạnh ai khoác tặng chúng tôi vinh dự đẹp các anh đón đưa nâng cốc chúc hòa bình các anh quyên thuốc men các anh đi biểu tình rồi thanh thản trồng hoa và câu cá và tìm thấy lương tâm mình yên ả trong nỗi đau quằn quại của chúng tôi ta oán giận các người, đồ dối trá loài người chung vai nhận tội ác này anh và tôi, vâng, tôi nữa, cả tôi chúng ta đã ngu tối đến nỗi không che chở được mẹ già em dại khỏi quả bom tàn bạo tự trời cao
Rồng lửa Việt Nam hạ gục “pháo đài bay” Mỹ trong trận Điện Biên Phủ trên không
* muốn kết thúc thơ mình bằng những lời tốt đẹp nhưng lòng tôi làm sao tươi sáng được khi máu bầm khắp nơi dưới bát cơm trên trời trong cốc nước đêm qua tôi đã chết với hàng ngàn mạng người từ than bụi tôi hiện hình trở lại mang đau thương đến trọn cuộc đời tôi sẽ xông vào mọi cuộc vui mọi buổi lễ uy nghiêm mọi bài ca lừa dối mọi quên lãng mọi nụ cười dễ dãi để nói về những xác chết cháy đen để nói về những xác chết cháy đen * kẻ làm chứng trung thành trước phiên tòa lịch sử giữa tột cùng đau khổ đâu dám ngồi trau chuốt mỗi câu thơ nhân danh cuộc sống, nói về cái chết nhân danh niềm vui, nói về nước mắt nhân danh tình yêu, tôi mãi mãi căm thù. Hà Nội 1972.